Lịch sử khai hoang Đài Loan

21/12/2011 11:54:06 SA

Đài Loan là một phần không thể chia cắt của Trung Quốc. Xét từ góc độ địa lý, ở thời đại viễn cổ, Đài Loan và đất liền Trung Quốc là một khối liền vào nhau. Sau đó, do hoạt động của vỏ trái đất, mảnh đất liên kết Đài Loan và đất liền chìm xuống, trở thành eo biển, do vậy, Đài Loan trở thành một hòn đảo trên biển. Văn vật với số lượng lớn như đồ đá, đồ gốm màu đen, đồ gốm nhiều màu khai quật từ các nơi Đài Loan cũng chứng minh, trước khi có lịch sử ghi chép, văn hóa Đài Loan và văn hoá đất liền Trung Quốc có nguồn gốc chung.

Theo văn hiến, năm 230, chúa nước Ngô Tôn Quyền từng cử tướng quân Vệ Ôn, Chư Cát Trực dẫn 10 nghìn thủy quân vượt biển đến Đài Loan. Đây là sự bắt đầu của cư dân đất liền Trung Quốc lợi dụng kiến thức văn hóa tiên tiến để khai thác Đài Loan. Đến nhà Tùy vào cuối thế kỷ thứ 6 và đầu thế kỷ thứ 7, nhà vua Tùy Dạng Đế từng 3 lần cử người đến Đài Loan, “tìm hiểu phong tục khác hẳn với đất liền”, thăm hỏi cư dân địa phương. Sau đó trong 600 năm từ nhà Đường đến nhà Tống, nhằm tránh khỏi chiến tranh, cư dân ven biển đất liền, nhất là cư dân ở Thuyền Châu và Chương Châu tỉnh Phúc Kiến, tới tấp sang Bành Hồ hoặc đảo Đài Loan, khai hoang đảo này. Năm 1335, nhà Nguyên chính thức đặt “Tuần Kiểm Tư” tại Bành Hồ để quản lý dân chính của Bành Hồ và đảo Đài Loan. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu đặt cơ quan chính quyền chuyên trách tại Đài Loan.

Kể từ nhà Minh, nhân dân đất liền và Đài Loan thường đi lại với nhau. Khi sang thăm các nước ở Nam Dương, hàm đội to lớn do nhà hàng hải Trịnh Hoà dẫn đầu từng cặp bến Đài Loan, mang lại hàng mỹ nghệ và nông sản phẩm cho cư dân địa phương. Năm 1628 (năm đầu tiên Sùng Trinh nhà Minh), Phúc Kiến bị hạn hán, cư dân không có cách kiếm sống, người Phúc Kiến Trịnh Chi Long tổ chức hàng vạn nhân dân bị nạn đến Đài Loan, khai thác đất hoang. Từ đó, Đài Loan bước vào thời kỳ khai thác với quy mô lớn.

Trịnh Thành Công thu hồi Đài Loan

Sau giữa thế kỷ 16, đảo Đài Loan giàu đẹp trở thành đối tượng ham muốn của bọn thực dân phương Tây. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lần lượt xâm phạm Đài Loan, hoặc cướp bóc tài nguyên, hoặc tiến hành xâm lược bằng văn hóa tôn giáo, hoặc trực tiếp cử quân chiếm đóng lãnh thổ. Năm 1642, người Hà Lan thay thế người Tây Ban Nha chiếm đóng miền bắc Đài Loan. Từ đó, Đài Loan trở thành thuộc địa của Hà Lan.

Trong thời kỳ chiếm đóng Đài Loan, bọn thực dân Hà Lan bóc lột tàn nhẫn nhân dân Đài Loan. Nhân dân Đài Loan không ngừng khởi nghĩa để chống lại bọn thực dân Hà Lan. Năm 1662, dưới sự phối hợp của nhân dân Đài Loan, anh hùng dân tộc Trịnh Thành Công trục xuất bọn thực dân Hà Lan và thu hồi Đài Loan. Nhưng sau đó không lâu, ông Trịnh Thành Công mắc bệnh qua đời. Trịnh Kinh—con trai của ông và Trịnh Khắc Sảng—cháu của ông cai trị Đài Loan cả thảy 22 năm. Trong thời gian cai trị Đài Loan, ba thế hệ ông cháu họ Trịnh khuyến khích sản xuất đường và muối, mở mang công nghiệp và thương nghiệp, phát triển thương mại, mở học đường cũng như đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp của dân tộc Cao Sơn. Những biện pháp nói trên đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và văn hóa Đài Loan. Thời kỳ này là thời kỳ khai thác và phát triển quan trọng trong lịch sử Đài Loan, được gọi là “Thời đại Minh Trịnh”

Vào những năm đầu nhà Thanh, Đài Loan được đưa vào bản đồ Trung Quốc

Năm 1683 (năm thứ 22 Khang Hy nhà Thanh), chính phủ nhà Thanh cử quân tấn công Đài Loan, Trịnh Khắc Sảng dẫn quân quy phục nhà Thanh. Chính phủ nhà Thanh đặt một phủ 3 huyện ở Đài Loan, thuộc tỉnh Phúc Kiến. Từ đó, Đài Loan quay trở về Trung Quốc, dưới sự quản lý thống nhất của chính phủ trung ương, nên liên hệ về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa với đất liền Trung Quốc ngày càng chặt chẽ. Đài Loan trở thành một phần không thể chia cắt của đất nước thống nhất.

Năm 1885 (năm thứ 11 Quang Tế), chính phủ nhà Thanh nâng cấp Đài Loan thành tỉnh, Lưu Minh Truyền được bổ nhiệm làm tuần phủ đầu tiên. Tuần phủ Lưu Minh Truyền chiêu mộ rất nhiều cư dân tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông đến Đài Loan, tiến hành khai thác với quy mô lớn. Sau đó ông lần lượt đặt Tổng cục khai hoang, Tổng cục điện tín, Tổng cục đường sắt, Cục quân giới, Cục thông thương, Cục khoáng sản và dầu khí, Cục chặt cây; xây dựng pháo đài, chỉnh đốn công tác phòng ngự; mắc dây điện, mở bưu điện; xây dựng đường sắt, mở mỏ khoáng, đóng tàu biển, phát triển ngành công thương; mở học đường Trung Tây, phát triển văn hóa-giáo dục.

Thời kỳ bị Nhật chiếm đóng

Trong 50 năm cuối thế kỷ 19, Nhật đi lên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa sau cuộc cải cách Mây-gi. Năm 1894, Nhật mở cuộc chiến tranh Trung-Nhật, tức là chiến tranh Giáp Ngọ. Năm 1895, Chính phủ nhà Thanh bị đánh bại ký “Điều ước Mã Quan” nhục nước mất quyền với Nhật, cắt Đài Loan và quần đảo Bành Hồ cho Nhật. Từ đó, Đài Loan trở thành thuộc địa của Nhật, bắt đầu thời kỳ bị Nhật chiếm đóng trong 50 năm.

Sau khi chiếm đóng Đài Loan, bọn thực dân Nhật đặt phủ Tổng đốc ở Đài Bắc, là cơ quan cao nhất thống trị Đài Loan, và thành lập công sở hương trấn ở các nơi, thực thi chế độ cảnh sát và chòm xóm, tiến hành thống trị thực dân và giáo dục “Hoàng dân hóa” đối với dân chúng. Đồng thời, theo nhu cầu phát triển kinh tế nước mình, Nhật coi Đài Loan là khu phát triển nông nghiệp và chế biến nông sản phẩm của mình, khiến ngành công nghiệp chế biến và ngành giao thông vận tải của Đài Loan từng bước được phát triển. Trong thời kỳ cuộc chiến thế giới thứ 2, nhằm phối hợp chính sách nam tiến của chủ nghĩa phát xít, Nhật tiến thêm một bước phát triển các ngành công nghiệp có liên quan với quân sự ở Đài Loan.

Thu lại và tách rời

Căn cứ sự thật lịch sử, Hiệp định quốc tế ký vào thời kỳ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã một lần nữa khẳng định Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc. Ngày 1 tháng 12 năm 1943, ba nước Trung Quốc, Mỹ và Anh ký “Tuyên ngôn Cai-rô” quy định: “Những mảnh đất lãnh thổ Nhật cướp đoạt từ Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ v,v, phải trả lại cho Trung Quốc.” Ngày 26 tháng 7 năm 1945, “Thông cáo Pốt-xđam” do 4 nước Trung Quốc, Mỹ, Anh và Liên Xô ký khẳng định “ các điều khoản của Tuyên ngôn Cai-rô chắc chắn sẽ được thực hiện”.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật tuyên bố chấp nhận các điều khoản trong “Thông cáo Pốt-xđam”, đầu hàng không điều kiện. Ngày 25 tháng 10 năm 1945, chính phủ Trung Quốc tổ chức nghi thức quân Nhật ở Đài Loan đầu hàng. Nhưng, sau khi thu hồi Đài Loan, nhà đương cục Quốc dân đảng lúc đó thống trị Trung Quốc áp dụng chính sách hết sức sai lầm, thực thi thống trị độc tài quân sự đối với nhân dân Đài Loan, cộng thêm việc quan lại tham nhũng, do vậy mâu thuẫn với nhân dân Đài Loan càng thêm gay gắt. Ngày 28 tháng 2 năm 1947, nhân dân Đài Loan tổ chức cuộc khởi nghĩa vũ trang chống chính quyền Quốc dân đảng. Quốc dân đảng cử nhiều quân đội đổ bộ Cơ Long và tiến hành đàn áp đẫm máu, người bị hại có hơn 30 nghìn người. Trong lịch sử, sự kiện này được gọi là sự kiện ngày 28 tháng 2.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc lật đổ chính phủ Quốc dân Đảng. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập. Trước khi đất liền Trung Quốc được giải phóng, Tưởng Giới Thạch và bộ phận nhân viên quân chính của Quốc dân đảng chạy sang Đài Loan. Nhờ sự che chở và ủng hộ của Mỹ, chúng duy trì sự thống trị ở Đài Loan, khiến Đài Loan và đất liền Trung Quốc một lần nữa ở vào trạng thái chia cắt.

vietnamese.cri.cn